Điểm mặt những thực phẩm bà bầu không nên bỏ qua khi mang thai

Điểm mặt những thực phẩm bà bầu không nên bỏ qua khi mang thai

Khi mang thai, việc bổ sung thực phẩm lành mạnh sẽ giúp cung cấp hỗn hợp tối ưu các chất dinh dưỡng cho bé. Bắt đầu từ tháng thứ 3 của thai kì, mẹ bầu sẽ cần bổ sung khoảng 300 calo trong chế độ ăn uống mỗi ngày. Trường Anh sẽ mách nhỏ mẹ bầu 1 số thực phẩm rất giàu chất dinh dưỡng, mẹ bầu nên bổ sung vào bữa ăn hàng ngày cho mình. Đậu đỗ Đậu xanh, đậu lăng, đậu đen và đậu nành cung cấp chất xơ, protein, sắt, folate, canxi và kẽm. Sữa chua (ít béo hoặc không béo) Sữa chua là nguồn dồi dào protein, canxi, vitamin B và kẽm. Sữa chua thường chứa nhiều canxi hơn sữa. Thịt bò Phần nạc bò, chẳng hạn như bít tết thịt bò phần lưng trên chứa nhiều protein, vitamin B6, B12, niacin, cũng như kẽm và sắt ở dạng hấp thụ cao. Thịt bò cũng rất giàu choline, cần thiết cho sự phát triển trí não và năng lực nhận thức cao nhất. Quả mọng Quả mọng chứa nhiều carbohydrate, vitamin C, kali, folate, chất xơ và chất lỏng. Các chất phytonutrients trong quả mọng là hợp chất thực vật tự nhiên giúp bảo vệ các tế bào khỏi bị hư hại. Sữa Sữa là một nguồn cung cấp tuyệt vời canxi, phốt pho và vitamin D - chất dinh dưỡng tạo xương mà mẹ và con cần mỗi ngày. Sữa cũng rất giàu protein, vitamin A và vitamin B. Nước cam Nước cam có thêm canxi và vitamin D chứa cùng hàm lượng các chất dinh dưỡng này giống sữa. Thêm vào đó, nước cam cung cấp lượng lớn vitamin C, kali và folate. Thịt lợn thăn Thịt lợn thăn tương tự ức gà không xương, không da. Nó chứa nhiều các vitamin B gồm thiamin, niacin, vitamin B6, kẽm, sắt và choline. Cá hồi Cá hồi cung cấp protein, vitamin B và chất béo omega-3 thúc đẩy sự phát triển não bộ và thị lực của trẻ. Khoai lang Khoai lang chứa nhiều vitamin C, folate, chất xơ và carotenoids - các hợp chất mà cơ thể bạn chuyển đổi thành vitamin A. Chúng cũng cung cấp kali với số lượng lớn. Phô mai (tiệt trùng) Phô mai cung cấp một lượng lớn canxi, phốt pho và magiê cho xương và thai nhi, cộng với vitamin B12 và protein (hãy sử dụng các loại phô mai ít béo). Trứng Trứng cung cấp tiêu loại protein cực kỳ chất lượng bởi chúng chứa tất cả các axit amin mà bạn và em bé của bạn đều cần để phát triển khỏe mạnh. Trứng cũng bao gồm hơn 10 loại vitamin và khoáng chất, chẳng hạn choline, lutein và zeaxanthin. Một số nhãn hàng cung cấp trứng giàu chất béo omega-3 mà bé cần để phát triển trí não và thị lực tốt nhất, vì vậy hãy kiểm tra nhãn hiệu trước khi mua. Bông cải xanh Loại rau này cung cấp folate, chất xơ, canxi, lutein, zeaxanthin, carotenoids để tăng cường thị lực; kali để cân bằng dịch và huyết áp. Hơn thế nữa, bông cải xanh cũng chứa các nguyên liệu thô để sản xuất vitamin A trong cơ thể. Ngũ cốc nguyên cám ​ Ngũ cốc nguyên cám giàu axit folic và các loại vitamin B khác, sắt và kẽm. Ngũ cốc nguyên chất cung cấp nhiều chất xơ và chất dinh dưỡng hơn các loại ngũ cốc tinh luyện, chẳng hạn như bánh mì trắng, gạo trắng và bột mì trắng.
Nga sắp thành nước phê chuẩn vaccine chống Covid-19 đầu tiên

Nga sắp thành nước phê chuẩn vaccine chống Covid-19 đầu tiên

Bất chấp sự hoài nghi từ giới chuyên gia về động cơ chính trị, Nga dự định trở thành nước đầu tiên trên thế giới phê duyệt một loại vaccine chống Covid-19. Các quan chức Nga cho biết họ đang nỗ lực để phê duyệt một loại vaccine chống Covid-19 trước ngày 10/8, được nghiên cứu và điều chế tại Viện Gamaleya có trụ sở tại thủ đô Moscow. Nga cho biết, sản phẩm sau khi được phê duyệt sẽ được sử dụng rộng rãi trong cộng đồng và được ưu tiên chuyển đến các nhân viên y tế tuyến đầu. Kirill Dmitriev, nhà tài trợ cho công tác điều chế vaccine của Nga đã so sánh sự kiện này với khoảnh khắc Liên Xô phóng thành công vệ tinh Sputnik vào năm 1957 (là vệ tinh đầu tiên trên thế giới). Tuy nhiên, do Nga chưa từng công bố bất cứ 1 cơ sở dữ liệu khoa học nào về quá trình thử nghiệm loại vaccine này. Vậy nên, rất nhiều người hoài nghi rằng việc Moscow sớm phê duyệt vaccine là do áp lực chính trị của Điện Kremlin, còn các chuyên gia trên thế giới thì vẫn lo ngại về các thử nghiệm lâm sàng của loại vaccine này. Theo các nhà khoa học Nga cho biết thì vaccine được điều chế nhanh chóng dựa trên phiên bản sửa đổi của một loại vaccine khác. Đây cũng là phương pháp phát triển vaccine phổ biến ở nhiều công ty dược phẩm sử dụng hiện nay. “Nga sẽ là nước tiên phong trong lĩnh vực điều chế vaccine. Nga từng cung cấp vacccine chống Ebola và MERS, vốn là giải pháp an toàn, hiệu quả cho thế giới”, ông Dmitriev khẳng định. Tuy vậy, Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) chưa ghi nhận loại vaccine chống MERS nào từng được phê duyệt. Các quan chức Nga cho biết dữ liệu khoa học về loại vaccine mới đang được biên soạn và họ sẽ sớm công bố thông tin chi tiết vào đầu tháng 8. Bộ Y tế Nga tuyên bố binh sĩ nước này là đối tượng thử nghiệm lâm sàng và các bác sĩ tuyến đầu là những người đầu tiên được tiêm vaccine.
6 cách đơn giản giúp bảo vệ bé an toàn trong mùa dịch

6 cách đơn giản giúp bảo vệ bé an toàn trong mùa dịch

     Dịch Covid-19 vẫn đang là mối đe dọa xung quanh mỗi chúng ta, hãy bỏ túi 6 bí kíp dưới đây để giúp bé an toàn trong mùa dịch này nhé. 6 bí kíp này hứa hẹn sẽ là trợ thủ đắc lực giúp mẹ bảo vệ bé khỏi virus, phát triển khỏe mạnh. Dạy bé cách giữ vệ sinh cá nhân Vệ sinh cá nhân sạch sẽ giúp trẻ tránh được sự xâm nhập của vi khuẩn, virus gây bệnh. Mẹ có thể hướng dẫn bé tự bảo vệ bản thân khi ở nhà và chốn công cộng như không dụi mắt, mũi bằng tay mà sử dụng khăn giấy; dùng khuỷu tay che miệng khi hắt xì hơi, ho; bấm thang máy bằng khuỷu tay và rửa tay sau khi tiếp xúc với các vật dụng chứa nhiều vi khuẩn (như là tay nắm cửa, điện thoại di động, nút bấm trong thang máy…). Cho bé ngủ đủ giấc Thời điểm này các bé đang được nghỉ hè vì vậy lịch trìnhsinh hoạt của trẻ ít nhiều sẽ bị đảo lộn, bé có xu hướng dành nhiều thời gian để chơi thay vì ăn đúng bữa và ngủ đủ giấc như khi ở trường. Mẹ nên biết, trong thời gian ngủ, cơ thể sẽ tiết ra các hormone quan trọng hỗ trợ quá trình chuyển hóa, tích lũy năng lượng cần thiết cho hoạt động trong ngày. Vì vậy, hãy cho bé ngủ đủ giấc, bởi ngủ đủ giấc sẽ giúp trẻ phát triển toàn diện, ít gặp vấn đề về sức khỏe. Đối với trẻ từ 1-3 tuổi 1 ngày nên ngủ từ 13-13,5 tiếng, còn đối với trẻ từ 3-6 tuổi nên ngủ đủ 11-11,5 tiếng mỗi ngày. Kiểm tra thân nhiệt cho bé mỗi ngày Việc kiểm tra thân nhiệt cho bé cần được tiến hành thường xuyên kể cả khi bé không ra ngoài. Đây là cách đơn giản nhất để nhận biết những dấu hiệu bất thường ở cơ thể trẻ. Từ đó, các bà mẹ có thể phòng tránh và đưa trẻ đến cơ sở y tế kịp thời. Trang bị khẩu trang cho bé Virus nCoV (Covid-19) xâm nhập vào cơ thể và lây lan qua đường hô hấp, bởi vậy việc trang bị khẩu trang cho trẻ là việc làm cần thiết khi ra ngoài. Mẹ nên nhớ đeo khẩu trang cho con phải che kín cả mũi lẫn miệng, cũng như hướng dẫn bé cách đeo khẩu trang đúng cách: Không sờ tay lên khẩu trang, khi tháo khẩu trang chỉ được cầm vào dây đeo qua tai, tháo ra cho vào thùng rác an toàn và không tái sử dụng. Luôn mang nước rửa tay khô khi ra ngoài Rửa tay thường xuyên khi tiếp xúc với các vật dụng dùng chung, trước khi ăn và sau khi đi vệ sinh là một trong những thói quen mà ba mẹ nên tập cho bé làm quen, bởi đây là giải pháp phòng ngừa Covid-19 được Bộ Y tế khuyến cáo. Trẻ em vốn hiếu động, nghịch ngợm nên rất dễ tiếp xúc với các môi trường, vật dụng thiếu vệ sinh. Khi không được rửa sạch, tay bé sẽ tích tụ hàng nghìn vi trùng và nếu chạm vào mắt và mũi, sẽ tạo điều kiện các vi trùng, vi khuẩn này xâm nhập vào cơ thể gây bệnh. Để trẻ nhận thức được tầm quan trọng của việc rửa tay, mẹ cần hướng dẫn bé rửa tay trước khi ăn, sau khi đi vệ sinh và chuẩn bị sẵn nước rửa tay khô để bé tự giác bảo vệ bản thân. Đổi mới bữa ăn mỗi ngày và bổ sung cho bé đầy đủ chất dinh dưỡng cần thiết Ngoài việc ngủ đủ giấc thì việc ăn uống điều độ, đủ chất cũng sẽ giúp bé khỏe mạnh, hạn chế ốm vặt và tăng cường sức đề kháng cho trẻ. Đặc biệt khi đang trong thời điểm dịch Covid-19 đang diễn biến phức tạp như hiện nay thì việc ăn uống đủ chất bổ sung chất dinh dưỡng cho bé lại càng cần phải chú ý. Để bé thêm hứng thú với việc ăn uống, mẹ hãy đổi mới thực đơn mỗi ngày, chế biến các món ăn mới và trang trí đẹp mắt để kích thích bé ăn nhiều hơn, ngon miệng hơn. Để tăng cường hiệu quả hệ miễn dịch và sức đề kháng cho con, mẹ có thể cho bé dùng thêm các loại thức uống dinh dưỡng có chứa HMO và colostrum. Với những bí quyết ở trên sẽ giúp bảo vệ sức khỏe cho bé hiệu quả, vậy nên các mẹ đừng bỏ qua mà hãy thử áp dụng cho bé nhà mình ngay nhé!
Tìm hiểu về bệnh viêm khớp dạng thấp

Tìm hiểu về bệnh viêm khớp dạng thấp

Viêm khớp dạng thấp là bệnh gì? Viêm khớp dạng thấp là một bệnh lý mạn tính do rối loạn tự miễn trong cơ thể gây nên, xảy ra khi hệ thống miễn dịch tấn công nhầm vào các mô trong chính cơ thể. Bệnh gây viêm (đỏ, sưng) dẫn đến đau, xơ cứng và sưng khớp, phần lớn là khớp tay, khớp lưng, khớp bàn chân và khớp gối. Viêm khớp dạng thấp không chỉ phá hủy làm tổn thương đến hệ khớp của còn thể mà có thể làm tổn thương đến cả hệ thống cơ thể bao gồm da, mắt, phổi, tim và mạch máu. Nguyên nhân dẫn đến viêm khớp dạng thấp Khi hệ thống miễn dịch bị tấn công synovium - lớp màng của màng bao quanh khớp dẫn đến viêm kết quả làm dày synovium, cuối cùng có thể phá hủy sụn và xương trong khớp. Các gân và dây chằng giữ các khớp với nhau cũng bị giãn và suy yếu khiến cho khớp bị biến dạng và mất tính liên kết. Trong một số trường hợp, yếu tố di truyền có thể có liên quan vì một số gen mặc dù không trực tiếp gây ra bệnh nhưng có thể khiến bạn nhạy cảm hơn với các yếu tố môi trường, chẳng hạn như nhiễm một số vi khuẩn hoặc virus nhất định và từ đó có thể làm khởi phát bệnh. Triệu chứng của bệnh Viêm khớp dạng thấp Triệu chứng phổ biến của viêm khớp dạng thấp phần lớn là đau khớp và xơ cứng khớp, nặng nhất vào buổi sáng sau khi thức dậy hoặc sau khi ngồi bất động trong khoảng thời gian dài. Tình trạng xơ cứng khớp thường đỡ hơn sau khi cử động nhiều lần. Triệu chứng này thường xuất hiện đột ngột và nhanh hết. Những triệu chứng khác bao gồm: bỏng hoặc ngứa mắt, mệt mỏi, nổi nhọt ở chân, chán ăn, ngứa ran và tê, nhịp thở ngắn, nốt sần da, yếu và sốt cao. Khớp có thể bị đỏ, sưng tấy, nóng, mềm và biến dạng khớp Viêm khớp dạng thấp thường diễn ra qua 4 giai đoạn sau: Giai đoạn I: viêm màng trên khớp dẫn đến sưng khớp và đau khớp. Giai đoạn II: sự gia tăng và làn truyền của viêm trong mô xảy ra trong giai đoạn này. Mô xương bắt đầu phát triển ảnh hưởng đến không gian khoang khớp và trên sụn, dần dần phá hủy sụn khớp và khớp bắt đầu thu hẹp do mất sụn. Ở giai đoạn này, thường không có dị dạng khớp, Giai đoạn III: Đây là giai đoạn nặng. Sự mất đi sụn khớp trong các khớp bị tổn thương làm lộ xương dưới sụn. Bệnh nhân thường đau khớp, sưng tấy, hạn chế chuyển động, cứng khớp vào buổi sáng, suy nhược cơ thể, teo cơ, hình thành các nốt sẩn dị dạng. Giai đoạn IV: Giai đoạn IV được gọi là giai đoạn cuối của bệnh viêm khớp dạng thấp. Ở giai đoạn này, quá trình viêm giảm đi và hình thành các mô xơ và xương chùng (xương kết hợp) dẫn đến việc ngừng chức năng khớp. Đối tượng nguy cơ bệnh Viêm khớp dạng thấp Viêm khớp dạng thấp có thể xảy ra ở mọi lứa tuổi, nhưng nó thường bắt đầu ở tuổi trung niên. Di truyền: nếu trong gia đình có người bị viêm khớp dạng thấp thì có nguy cơ mắc bệnh Phụ nữ có nhiều khả năng mắc bệnh viêm khớp dạng thấp hơn nam giới. Phơi nhiễm môi trường. Mặc dù hiểu biết kém, một số phơi nhiễm như amiăng hoặc silica có thể làm tăng nguy cơ phát triển viêm khớp dạng thấp. Các nhân viên cấp cứu tiếp xúc với bụi từ sự sụp đổ của Trung tâm Thương mại Thế giới có nguy cơ mắc các bệnh tự miễn như viêm khớp dạng thấp. Hút thuốc lá làm tăng nguy cơ phát triển viêm khớp dạng thấp Béo phì. Những người - đặc biệt là phụ nữ từ 55 tuổi trở xuống - những người thừa cân hoặc béo phì dường như có nguy cơ mắc bệnh viêm khớp dạng thấp cao hơn Biện pháp điều trị bệnh Viêm khớp dạng thấp Điều trị bằng thuốc: Viêm khớp dạng thấp có thể điều trị bằng thuốc, các loại thuốc được bác sỹ chỉ định phụ thuộc vào mức độ nghiêm trọng của các triệu chứng của người bệnh. Một số thuốc điều trị viêm khớp dạng thấp như: Sagacoxib 200mg  Thuốc HCQ  Artrex  Actemra 200mg  Etotab 60mg Điều trị bằng phương pháp phẫu thuật: Trong trường hợp việc sử dụng thuốc không thể ngăn ngừa hoặc làm chậm tổn thương khớp, có thể xem xét phẫu thuật để sửa chữa các khớp bị hư hỏng. Phẫu thuật có thể giúp khôi phục khả năng sử dụng khớp. Nó cũng có thể làm giảm đau và cải thiện chức năng. Các biện pháp hỗ trợ: Tập luyện, hướng dẫn vận động chống co rút gân, dính khớp, teo cơ. Trong đợt viêm cấp: để khớp nghỉ ở tư thế cơ năng, tránh kê, độn tại khớp. Khuyến khích tập ngay khi triệu chứng viêm thuyên giảm, tăng dần, tập nhiều lần trong ngày, cả chủ động và thụ động theo đúng chức năng sinh lý của khớp. Phục hồi chức năng, vật lý trị liệu, tắm suối khoáng Sử dụng các dụng cụ hỗ trợ
Những dấu hiệu nhận biết vô sinh ở nam giới

Những dấu hiệu nhận biết vô sinh ở nam giới

Những dấu hiệu nhận biết vô sinh ở nam giới Trong tổng các ca vô sinh hiếm muộn, một phần ba các trường hợp vô sinh là ở nam giới. Nắm rõ được những dấu hiệu vô sinh ở nam để sớm tìm được biện pháp chữa trị kịp thời là điều cần thiết giúp cánh mày râu có con như mong muốn. Những nguyên nhân dẫn đến vô sinh ở nam giới Bệnh vô sinh ở nam giới có thể bắt nguồn từ một số nguyên nhân sau: Vô sinh do di truyền: trong quá trình thụ thai có thể gây ra những đột biến hay rối loạn nhiễm sắc thể, các biến đổi này là nguyên nhân làm thay đổi nội tiết tố dẫn đến vô sinh. Vô sinh do cơ quan sinh dục bị khuyết tật: ngay từ khi sinh ra nam giới đã mắc phải một số bẩm sinh ở cơ quan sinh dục như tắc ống dẫn tinh, tắc mào tinh hoàn… Vô sinh do mắc bệnh nam khoa: khi nam giới mắc các bệnh nam khoa như ung thư tinh hoàn, giãn mạch thừng tinh, đau tinh hoàn… nếu không chữa trị sớm có thể gây nên biến chứng và tác động đến chức năng sinh sản. Vô sinh do tác động của môi trường: môi trường làm việc căng thẳng, áp lực cũng sẽ khiến cho cơ thể mệt mỏi, stress, không muốn quan hệ với bạn tình Vô sinh do lối sống không lành mạnh: khi nam giới uống nhiều bia, rượu, thuốc lá, cà phê, ăn uống không điều độ thì không chỉ ảnh hưởng đến sức khỏe mà còn gây suy giảm chức năng sinh lý, sinh sản khiến cho nam giới đối mặt với chứng vô sinh – hiếm muộn. Xem thêm bài viết: Sóc lọ là gì? CẢNH BÁO cho nam giới!!! Dấu hiệu nhân biết vô sinh ở nam giới Tinh hoàn: Khi tinh hoàn có các triệu chứng bất thường như đau tinh hoàn, nổi khối u, tinh hoàn quá nhỏ cũng là dấu hiệu cho thấy nam giới có dấu hiệu vô sinh. Quy đầu dương vật: Quy đầu dương vật có cảm giác sưng, tấy đỏ, đau, mọc mụn, viêm nhiễm lở loét cũng là dấu hiệu cho thấy bạn mắc bệnh vô sinh. Xuất tinh sớm: Xuất tinh sớm làm giảm về số lượng và chất lượng tinh trùng hoặc số ít  chưa quan hệ đã xuất tinh khiến cho nam giới gặp phải tình trạng vô sinh. Đau khi xuất tinh: Dấu hiệu đau khi xuất tinh nếu quan sát kỹ tinh trùng sẽ có màu đục hoặc máu bất thường. Rối loạn cương dương: Hiện tượng dương vật không có cả năng cương cứng để thực hiện giao hợp. Bìu: Bìu bị sưng phồng, tấy đỏ hoặc bị đau bất thường có biểu hiện của bệnh viêm mào tinh hoàn, xoắn tinh hoàn nguyên nhân gây vô sinh nam. Đi tiểu nhiều lần trong ngày: Khi nam giới đi tiểu nhiều lần trong ngày kèm theo cảm giác buốt rát sau mỗi lần đi tiểu là dấu hiệu của bệnh viêm tuyến tiền liệt, viêm bàng quang. Nếu người bệnh không được phát hiện và xử lý kịp thời thì khả năng cao bạn sẽ mắc chứng vô sinh nam. Ngoài ra nam giới còn thiếu ham muốn tình dục hay sức sống trong chuyện chăn gối, tâm lý căng thẳng gây ra cảm giác lo lắng, ra nhiều mồ hôi và xuất hiện nhiều nốt đỏ nóng ran. Phương pháp chữa bệnh vô sinh ở nam giới Những phương pháp hiện này thường áp dụng để chữa vô sinh đó là: Bằng thuốc: bạn có thể sử dụng các loại thuốc có tác dụng làm cân bằng hormone và điều trị rối loạn cương dương để hỗ trợ điều trị vô sinh, dưới chỉ định của bác sỹ. Phẫu thuật: phương pháp này áp dụng cho nam giới bị tắc ống dẫn tinh hoặc giãn tĩnh mạch ở tinh hoàn Thụ tinh nhân tạo:  bơm tinh trùng trực tiếp vào tử cung, tiêm tinh trùng vào trứng, thụ tinh ống ngiệm hoặc nếu chất lượng tinh trùng của nam giới không đạt yêu cầu thì sử dụng tinh trùng được hiến tặng. Một số thuốc chữa bệnh vô sinh Ngũ tử diễn tông hoàn  Formenton  Pregnyl 5000IU Phòng vô sinh cho nam giới? Những phương pháp phòng tránh bệnh vô sinh như: Một điều kiện tốt để tăng sự hòa hợp trong đời sống vợ chồng, giảm nguy cơ vô sinh – hiếm muộn đó là luôn tự tin, thoải mái, không căng thẳng Tránh sử dụng các chất gây hại, kích thích như bia, rượu, thuốc lá… Không nên mặc quần áo quá chật. Khi phát hiện ra những dấu hiệu bất thường có ảnh hưởng đến sức khỏe sinh sản như đau tinh hoàn, xuất tinh sớm thì nam giới nên đi thăm khám tại các cơ sở y tế chuyên khoa để được chữa trị sớm, tránh gây vô sinh – hiếm muộn. Một cơ thể khỏe mạnh và luôn được bảo vệ khỏi các vi khuẩn gây hại, luôn là một điều kiện tốt để có thể thụ thai và sinh con như bình thường. Vệ sinh cơ quan sinh dục trước và sau khi quan hệ tình dục để tránh được các trường hợp viêm nhiễm không đáng có.
Xuất hiện chủng virus mới gây COVID-19 ở Việt Nam

Xuất hiện chủng virus mới gây COVID-19 ở Việt Nam

Sáng 27-07, Ban Chỉ đạo quốc gia phòng, chống dịch COVID-19 do Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam chủ trì, đã họp phân tích cơ chế lây nhiễm, diễn biến, dự báo tình hình dịch bệnh tại Đà Nẵng và đề ra các giải pháp tối ưu để ứng phó trong thời gian tới. Tại cuộc họp, các chuyên gia và thành viên Ban Chỉ đạo phân tích cơ chế lây nhiễm, diễn biến, dự báo tình hình dịch bệnh tại Đà Nẵng và đề ra các giải pháp tối ưu để ứng phó trong thời gian tới. Các chuyên gia dịch tễ cho biết, qua phân tích dịch tễ, các trường hợp mắc bệnh đều liên quan đến 3 cơ sở: Bệnh viện Đà Nẵng, Bệnh viện C Đà Nẵng, Bệnh viện Chỉnh hình, 3 bệnh viện này nằm chung trên 1 khu đất. Quyền Bộ trưởng Bộ Y tế Nguyễn Thanh Long cho biết, kết quả phân tích nguồn gen của virus từ các bệnh nhân cho thấy đây là chủng virus mới xuất hiện ở Việt Nam (trước đây Việt Nam đã phát hiện ra 5 chủng virus SARS-CoV-2 khác nhau). Theo ông, chủng virus này có đặc tính lây lan nhanh hơn so với các chủng trước đây đã ghi nhận. Nhưng chưa có căn cứ xác định độc lực của virus này tăng lên so với các chủng trước. Phong toả từng nấc Bộ Y tế đã phối hợp chặt chẽ với Đà Nẵng, cử những chuyên gia giỏi nhất vào địa phương để triển khai quyết liệt các biện pháp dập dịch, ngăn chặn không để dịch bệnh lây lan ra cộng đồng; tổng rà soát nhằm tìm ra nguồn lây sớm nhất; tổ chức điều trị cho các bệnh nhân mắc Covid-19. Đối với 2 bệnh nhân nặng, đến sáng ngày 27/7 các chỉ số sức khoẻ tương đối ổn định,… Việc phong toả cụm 3 bệnh viện tại Đà Nẵng, lãnh đạo Bộ Y tế cho biết, sẽ áp dụng giống như Bệnh viện Bạch Mai trước đây. Đồng thời, Bộ Y tế sẽ hỗ trợ tối đa nhất về nguồn lực để cùng với địa phương tổ chức hiệu quả cách ly, truy vết, điều trị, xét nghiệm, khoanh vùng, dập dịch… Lãnh đạo Bộ Y tế cũng đề xuất giải pháp để triển khai các biện pháp xét nghiệm phù hợp với từng khu vực, nhằm nâng cao hiệu quả tầm soát; tổ chức phân tuyến cơ sở khám chữa bệnh để bảo đảm đáp ứng nhu cầu của người dân; tổ chức công tác bảo đảm hậu cần phục vụ khu vực phong tỏa… Để ngăn chặn dịch bệnh lây lan ra cộng đồng, cần tổ chức giãn cách xã hội, phong tỏa ổ dịch hợp lý; không phong toả tất cả mà phong toả từng nấc; thực hiện giãn cách xã hội tại Đà Nẵng, mọi người hạn chế ra khỏi nhà, không tụ tập đông người... Đối với người dân, tất cả những người đi từ Đà Nẵng có liên quan đến ổ dịch này khi trở về địa phương khác phải cách ly 14 ngày và theo dõi chặt chẽ như những người tiếp xúc gần; còn những người khác từ Đà Nẵng về phải khai báo y tế và theo dõi sức khoẻ. Bên cạnh đó, cần mở rộng xét nghiệm để nhanh chóng phát hiện các ổ dịch, kịp thời khoanh vùng, dập dịch triệt để. Các chuyên gia cho rằng, những giải pháp này không chỉ áp dụng riêng với Đà Nẵng mà ở các địa phương khác cũng cần kiểm soát chặt các trường hợp nghi nhiễm; đồng thời tăng cường kiểm soát bảo đảm an toàn dịch tễ tại các cơ sở khám chữa bệnh… Nâng cao ý thức, không được chủ quan, lơ là Tại cuộc họp, các bộ ngành đều nhấn mạnh tính nghiêm trọng của vấn đề và cho rằng chúng ta không được chủ quan, lơ là. Thời gian tới cần siết chặt công tác quản lý biên giới, đường mòn, lối mở, quản lý người nhập cảnh; khẩn trương điều tra, xử lý nghiêm các trường hợp xuất nhập cảnh trái phép. Chính quyền các địa phương và người dân phối hợp chặt chẽ với lực lượng chức năng trong việc quản lý người nhập cảnh. Đối với các cơ sở y tế, các đại biểu cũng đề nghị cần phải nâng mức độ cảnh báo và bảo đảm an toàn dịch tễ, cũng như khả năng phát hiện người nhiễm bệnh; quản lý những người về địa phương từ Đà Nẵng về theo đúng quy định;… Bộ trưởng Bộ TT&TT Nguyễn Mạnh Hùng cũng đề nghị chính quyền các địa phương và người dân cộng tác trong việc thực hiện khai báo y tế điện tử (thông qua các ứng dụng NCOVI, Bluezone), để phục vụ công tác phòng chống dịch. Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam cho rằng cần phải tiếp tục phát huy những kinh nghiệm trước đây trong công tác phòng, chống dịch bệnh. Phó Thủ tướng hoan nghênh Bộ Y tế cử các đội chuyên gia giỏi nhất vào hỗ trợ Đà Nẵng khoanh vùng, dập dịch và nhấn mạnh phải tiếp tục thực hiện quyết liệt các biện pháp phòng, chống dịch, đặc biệt là kinh nghiệm xử lý các ổ dịch lớn như ở BV Bạch Mai.
Thuốc điều trị COVID-19 đã được tìm ra ở Anh

Thuốc điều trị COVID-19 đã được tìm ra ở Anh

Một nhóm các nhà khoa học Anh sau nhiều thử nghiệm lâm sàng, đã tìm ra một phương thuốc điều trị cho bệnh nhân COVID-19 vừa hiệu quả, vừa tiết kiệm chi phí Chương trình thử nghiệm thuốc này có sự tham gia của hơn 3.000 bác sĩ và y tá làm việc với 12.000 bệnh nhân COVID-19 tại 176 bệnh viện trên khắp nước Anh. Họ đã tìm ra một loại thuốc điều trị sẵn có và hiệu quả mà còn tiết kiệm chi phí, có thể cứu được sinh mạng của rất nhiều bệnh nhân COVID-19 nặng. Công trình nghiên cứu này được ca ngợi là có thể cứu thế giới. Giáo sư Martin Landray của đại học Oxford và Peter Horby là người đứng đầu công trình nghiên cứu này. Ông là chuyên gia về bệnh truyền nhiễm và là người đã từng tham gia vào các cuộc thử nghiệm thuốc trị điều trị COVID-19 ở Vũ Hán hồi năm ngoái khi đại dịch bắt đầu bùng phát. Sau kết hợp không như mong đợi của điều trị hai loại thuốc kháng HIV là lopinavir và ritonavir, các nhà nghiên cứu này đã phát hiện ra dexamethasone, loại thuốc rẻ tiền được dùng để điều trị kháng viêm và viêm khớp lại rất hiệu quả trong điều trị COVID-19.  Sau khi cho sử dụng thuốc dexamethasone, tỉ lệ tử vong vì COVID-19 đã giảm xuống 1/3. Giáo sư Landray cho biết, thuốc này có giá 5 bảng Anh và có sẵn tại các hiệu thuốc nhưng kết quả của nó thật bất ngờ.  Hiện nay dexamethasone đã được bổ sung vào các hướng dẫn lâm sàng trong điều trị các bệnh nhân của COVID-19 tại các bệnh viện khắp thế giới, trong khi đó thuốc điều trị HIV lopinavir, ritonavir và thuốc điều trị sốt rét mà tổng thống Mỹ Donald Trump từng ca ngợi hydroxychloroqine đều bị loại bỏ. Hiện nay các nhà khoa học đang tiếp tục thử nghiệm các loại thuốc điều trị COVID-19 tập trung vào  1 loại thuốc kháng sinh azithromycin, kháng thể tocilizumab và huyết tương được lấy từ những người đã từng bị mắc COVID-19. Hi vọng thoát khỏi dịch bệnh Trước chương trình thử nghiệm này, chưa có thuốc điều trị COVID-19 nào được chứng minh có thể làm giảm tỉ lệ tử vong của bệnh, mặc dù thuốc remdesivir của Hãng dược Mỹ Gilead Sciences đã được chứng minh có khả năng rút ngắn thời gian hồi phục cho bệnh nhân COVID-19. Tiến sĩ Mark Wurfel, giáo sư y khoa tại ĐH Washington, nhận xét: "Thuốc này đã đánh bại remdesivir về quy mô hiệu quả cũng như tác dụng điều trị". Mặc dù vẫn nhấn mạnh quan điểm tiếp cận thận trọng khi chờ xem và thẩm định các cứ liệu khoa học của nghiên cứu, song ông Wurfel cũng thừa nhận khả năng "cải tử hoàn sinh" với một số lượng lớn người bệnh COVID-19 đã ở tình trạng nguy kịch chính là hiệu quả điều trị lớn nhất của một loại thuốc mà những người làm chuyên môn như ông từng thấy trước nay. Cho tới nay các bác sĩ tại các bệnh viện của Northwell vẫn đang sử dụng các loại thuốc steroid (kiểu như dexamethasone) căn cứ trên từng trường hợp người bệnh khi điều trị, vì những thuốc này có thể ức chế hệ miễn dịch của người bệnh và khiến họ dễ lây nhiễm các bệnh khác hơn. Nếu dữ liệu công trình nghiên cứu của các nhà khoa học ĐH Oxford được cộng đồng y khoa thẩm định và được chính thống hóa, nó sẽ giúp mở rộng điều trị các thuốc steroid ở những người bệnh COVID-19 nặng nhất. Thuốc dexamethasone hiện đang trong danh sách các thuốc thiếu thốn nguồn cung của Cơ quan Quản lý thuốc và thực phẩm (FDA) Mỹ. Nhiều nhà khoa học cũng nói họ hi vọng có thể tự mình thẩm định các cứ liệu khoa học trong báo cáo này sớm. Đó là sự thận trọng cần thiết, căn cứ trên thực tế mới đây tạp chí y khoa uy tín Lancet buộc phải công bố rút lại một nghiên cứu lớn đăng tải trong tháng 5 nêu kết luận thuốc trị sốt rét không có hiệu quả trong điều trị COVID-19. Dexamethasone phổ biến ở Việt Nam Giáo sư Guy Thwaites - giám đốc Đơn vị nghiên cứu lâm sàng Đại học Oxford (OUCRU) cho biết: thuốc dexamethasone là loại thuốc có từ rất lâu và đã được dùng điều trị nhiều chứng viêm, ngoài ra cũng được dùng hỗ trợ điều trị một số nhiễm trùng nguy hiểm như bệnh lao. Cũng theo ông Thwaites, dexamethasone là thuốc rất sẵn và rất rẻ, cũng là thuốc được sử dụng rộng rãi ở Việt Nam. Hầu hết mọi người trên thế giới bị COVID-19 sẽ không gặp khó khăn gì trong việc tìm mua thuốc cũng như chi phí mua thuốc. Bởi vậy, việc chứng minh thuốc dexamethasone có thể nâng cao tỉ lệ cứu sống người bệnh COVID-19 bị nặng cho thấy tiềm năng cứu sống được rất nhiều sinh mạng người bệnh trên toàn thế giới gần như ngay lập tức.
Vì sao một số thuốc không được nhai, bẻ nhỏ hoặc nghiền ?

Vì sao một số thuốc không được nhai, bẻ nhỏ hoặc nghiền ?

Vì sao một số thuốc không được nhai, bẻ nhỏ hoặc nghiền ? Có rất nhiều dạng thuốc viên không nên nhai hoặc nghiền, bẻ nhỏ. Bởi vì việc này sẽ phá vỡ cấu trúc giải phóng thuốc, làm thay đổi dược động học của thuốc (hấp thu, phân bố, chuyển hóa, thải trừ của thuốc) và có thể dẫn đến mất hoặc giảm hiệu quả điều trị hoặc xảy ra độc tính cho người bệnh. Có những dạng thuốc viên nào không được nhai, nghiền hay bẻ nhỏ? Có 6 dạng thuốc sau không nên được nhai, nghiền hay bẻ nhỏ. 1. Thuốc có dạng bào chế giải phóng dược chất kéo dài 2. Thuốc bao tan trong ruột 3. Thuốc ngậm dưới lưỡi 4. Thuốc chứa dược chất có nguy cơ gây hại cho người tiếp xúc 5. Thuốc rất đắng, có mùi khó chịu 6. Thuốc viên sủi Vì sao một số thuốc không được nhai, bẻ nhỏ hoặc nghiền ? Có rất nhiều dạng thuốc viên không nên nhai hoặc nghiền, bẻ nhỏ. Bởi vì việc này sẽ phá vỡ cấu trúc giải phóng thuốc, làm thay đổi dược động học của thuốc (hấp thu, phân bố, chuyển hóa, thải trừ của thuốc) và có thể dẫn đến mất hoặc giảm hiệu quả điều trị hoặc xảy ra độc tính cho người bệnh. Có những dạng thuốc viên nào không được nhai, nghiền hay bẻ nhỏ? Có 6 dạng thuốc sau không nên được nhai, nghiền hay bẻ nhỏ. 1. Thuốc có dạng bào chế giải phóng dược chất kéo dài Là dạng thuốc có bao một lớp màng mỏng đặc biệt hoặc có khung trơ (matrix) chứa thuốc giúp phóng thích dược chất từ từ trong suốt thời gian di chuyển trong ống tiêu hóa để cho tác dụng kéo dài. Thuốc phóng thích dược chất suốt 12 hoặc 24 giờ. Dấu hiệu nhận biết: ký hiệu trên tên thuốc thường có các chữ viết tắt trong Bảng 1. Ví dụ một số biệt dược có ở BV có các kí hiệu trên: GLUCOPHAGE XR (metformin), SaVi Trimetazidine MR (trimetazidin), Adalat LA (nifedipin), DUSPATALIN RETARD (mebeverine). Tuy nhiên, cũng có nhiều tên thuốc không có ký hiệu để nhận biết như: AGGRENOX (aspirin and dipyridamole), PENTASA (mesalamine), PLENDIL (felodipine), NITROMINT (nitroglycerin). Đặc biệt, dạng thuốc này chứa hàm lượng cao hơn dạng thuốc thông thường nên phải dùng đúng số viên, số lần trong ngày theo chỉ định của bác sĩ. Nếu dùng sai có thể gây quá liều nguy hiểm và đặc biệt không được nhai, bẻ nhỏ hoặc mở viên nang. 2. Thuốc bao tan trong ruột Là dạng bào chế để thuốc đi qua dạ dày còn nguyên vẹn và chỉ tan ở phần đầu ruột non (tá tràng) và phóng thích dược chất ở ruột. Mục đích của dạng thuốc này là ngăn ngừa dược chất bị phân hủy trong môi trường acid của dạ dày chẳng hạn như các thuốc ức chế bơm proton NEXIUM (esomeprazole), OVAC (omeprazole) hoặc PARIET (rabeprazole); hay ngăn ngừa dược chất phóng thích ở dạ dày, gây hại cho niêm mạc dạ dày (như viên nén bao tan ở ruột aspirin pH=8). Với loại thuốc viên bao tan trong ruột, rất cần uống nguyên vẹn cả viên. 3. Thuốc ngậm dưới lưỡi Với những viên thuốc đặt dưới lưỡi và ngậm cho tan cần đặc biệt lưu ý tuyệt đối không được bẻ đôi, bẻ nhỏ viên thuốc, nếu làm như vậy thì sẽ phá vỡ cấu trúc nguyên vẹn của thuốc, làm hỏng dạng thuốc. Ví dụ như thuốc SORBITRATE (isosorbide dinitrate), ERGOMAR (ergotamine). 4. Thuốc chứa dược chất có nguy cơ gây hại cho người tiếp xúc Là thuốc điều trị ung thư, thuốc gây độc tế bào, thuốc ức chế miễn dịch. Việc nhai hoặc nghiền các thuốc này có thể không ảnh hưởng đến dược động học của thuốc nhưng sẽ tạo ra các hạt phân tử có khả năng gây hại cho người thao tác do hít phải các phân tử này. Một số thuốc như DOLOBIB (diflunisal), FELDENCE (piroxicam), POSICOR (mibefradil) nếu nghiền hoặc mở viên nang, bột thuốc sẽ phân tán, tiếp xúc với da hoặc niêm mạc gây kích ứng. Thậm chí có thuốc như PROPECIA (finasteride), PROSCAR(finasteride) được khuyến cáo không được nghiền, bẻ nhỏ vì nếu bột thuốc bị phân tán, xâm nhập qua cơ thể phụ nữ mang thai (qua đường mũi, miệng) sẽ ảnh hưởng đến thai. 5. Thuốc rất đắng, có mùi khó chịu Không nên nhai, nghiền những thuốc mà dược chất có mùi vị khó chịu như: ZINNAT (cefuroxim), REMERON (mirtazapine) hoặc dược chất gây kích ứng niêm mạc đường tiêu hóa như FOSAMAX (alendronate). Các thuốc: BETAPEN-VK (Penicillin V), CIPRO (ciprofloxacin), CEFTIN (cefuroxime), DESYREL (trazodone), EQUANIL (meprobamate), BERBERIN (berberin) là thuốc phải uống nguyên viên vì nếu bẻ nhỏ, nghiền nát, bệnh nhân sẽ không chịu được vị đắng khó chịu của dược chất.
FDA chấp thuận thuốc điều trị loãng xương Bonviva 150mg

FDA chấp thuận thuốc điều trị loãng xương Bonviva 150mg

Cơ quan Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Hoa Kỳ (FDA) đã chấp thuận dùng Boniva uống một lần mỗi tháng (viên nén ibandronate natri) 150 mg, thuốc đầu tiên và duy nhất mỗi tháng một lần để điều trị chứng loãng xương sau mãn kinh. Boniva là phương pháp điều trị răng miệng đầu tiên được dùng như một viên mỗi tháng một lần cho bất kỳ bệnh mãn tính nào. Với Boniva một lần mỗi tháng, một bisphosphonate hiệu quả, bệnh nhân sẽ uống 12 viên một năm so với 52 lần yêu cầu với các phương pháp điều trị bisphosphonate hàng tuần hiện tại. Tại sao hàng tháng Boniva? Lựa chọn điều trị mới này xuất hiện sau báo cáo của Tổng Y sĩ về việc tăng loãng xương lên một mối đe dọa sức khỏe cộng đồng lớn ngang bằng với hút thuốc và béo phì. 1 bốn mươi bốn triệu người Mỹ trên 50 tuổi, bị ảnh hưởng bởi hoặc có nguy cơ bị loãng xương, khiến xương trở nên yếu và có nhiều khả năng bị vỡ, và có thể dẫn đến đau dữ dội, biến dạng, tàn tật, nhập viện và thậm chí tử vong. 2 Để cải thiện sự kiên trì, Báo cáo của Tổng giám đốc đã khuyến cáo, trong số các biện pháp khác nhau, đơn giản hóa và tổ chức các phác đồ điều trị. 1 Được phát triển để đáp ứng nhu cầu của bệnh nhân, Boniva một lần mỗi tháng được phê duyệt dựa trên một đơn thuốc mới bổ sung. Boniva uống một lần hàng tháng hiện không được chấp thuận cho sử dụng bên ngoài Hoa Kỳ, mặc dù đang được xem xét theo quy định tại các thị trường trên toàn thế giới, bao gồm Châu Âu, nơi sẽ được bán trên thị trường theo nhãn hiệu Bonviva. Boniva 150 mg mỗi tháng một lần và Boniva 2,5 mg mỗi ngày được chỉ định để điều trị và phòng ngừa loãng xương sau mãn kinh. Boniva mỗi tháng được dự kiến ​​sẽ có sẵn theo toa thuốc tại các hiệu thuốc của Hoa Kỳ vào tháng Tư. Kết quả thử nghiệm lâm sàng Boniva Boniva hàng ngày (2,5 mg) đã được phê duyệt để điều trị và phòng ngừa chứng loãng xương dựa trên các nghiên cứu cho thấy, trong hơn ba năm, nó làm giảm đáng kể nguy cơ gãy xương sống mới ở phụ nữ bị loãng xương sau mãn kinh và tăng mật độ khoáng xương (BMD) ở phụ nữ sau mãn kinh mà không bị loãng xương. Boniva uống một lần mỗi tháng (150 mg) đã được phê duyệt dựa trên kết quả từ nghiên cứu MOBILE (Monthly Oral iBandronate In LadiEs), một thử nghiệm ngẫu nhiên, mù đôi, đa quốc gia, không thua kém ở 1.602 phụ nữ bị loãng xương sau mãn kinh. MOBILE đã trình bày như sau: Liều hàng tháng ít nhất là tương đương với liều hàng ngày trong tăng BMD sau một năm ở cột sống thắt lưng và các vị trí xương khác Mức tăng trung bình từ đường cơ sở trong cột sống thắt lưng BMD là 4,9% trong nhóm hàng tháng và 3,9% ở nhóm hàng ngày (p = 0,002) Nhóm một lần mỗi tháng cũng có mức tăng BMD cao hơn liên tục tại các vị trí xương khác so với nhóm hàng ngày Thông tin an toàn quan trọng Boniva được chống chỉ định ở những bệnh nhân không thể đứng hoặc ngồi thẳng đứng trong ít nhất 60 phút, với giảm calci máu không được điều trị, hoặc có quá mẫn cảm với bất kỳ thành phần nào của Boniva. Boniva, giống như các bisphosphonates khác dùng đường uống, có thể gây ra các rối loạn đường tiêu hóa trên như khó nuốt, viêm thực quản và loét thực quản hoặc dạ dày. Boniva không được khuyến cáo ở bệnh nhân suy thận nặng. Lượng canxi và Vitamin D đầy đủ là quan trọng ở tất cả các bệnh nhân. Hiếm khi, bệnh nhân đã báo cáo đau xương, khớp và / hoặc đau cơ nghiêm trọng sau khi dùng liệu pháp bisphosphonate cho bệnh loãng xương. Ngoài ra, hoại tử xương hàm hiếm khi được báo cáo ở những bệnh nhân được điều trị bằng bisphosphonates; hầu hết các trường hợp đã được ở bệnh nhân ung thư trải qua thủ tục nha khoa. Các tác dụng phụ thường gặp nhất với Boniva một lần mỗi tháng bất kể nguyên nhân là đau bụng (Boniva 150 mg 7,8% so với Boniva 2,5 mg 5,3%), tăng huyết áp (6,3% so với 7,3%), chứng khó tiêu (5,6% so với 7,1%) ), đau khớp (5,6% so với 3,5%), buồn nôn (5,1% so với 4,8%) và tiêu chảy (5,1% so với 4,1%). Về Boniva miệng một lần mỗi tháng Boniva một lần mỗi tháng là một viên thuốc nhỏ, được bọc màng, dễ nuốt có liều lượng 150 mg. Bệnh nhân nên dùng Boniva với nước sạch trên một dạ dày trống rỗng khi tăng vào buổi sáng. Họ nên đứng thẳng và tránh thức ăn, đồ uống và các loại thuốc khác trong ít nhất 60 phút. Bệnh nhân dùng Boniva đủ điều kiện đăng ký MyBONIVA, một chương trình hỗ trợ bệnh nhân được thiết kế để giúp tăng cường tuân thủ (điều trị theo chỉ dẫn) và kiên trì (duy trì điều trị) với chế độ độc đáo một lần một tháng này.  Mua Bonviva 150mg ở đâu? Các bạn có thể dễ dàng mua Bonviva 150mg tại Quầy Thuốc bằng cách Mua hàng trực tiếp tại cửa hàng : Đ/c : 29 Xa la, Hà Đông, Hà Nội Mua hàng trên website : http://quaythuoctruonganh.org Mua hàng qua số điện thoại hotline : Call/Zalo: 0973998288 để được gặp dược sĩ đại học tư vấn cụ thể và nhanh nhất
Novartis Pharma tuyển 2 đăng ký thuốc 14/4/2018

Novartis Pharma tuyển 2 đăng ký thuốc 14/4/2018

VPĐD Novartis Pharma cần tuyển GẤP 2 vị trí đăng ký thuốc: 1 internship, 1 contractor: Yêu cầu: Nhanh nhẹn, trách nhiệm, tiếng Anh tốt, smart thinking Đối tượng:  Các bạn sinh viên năm 4 hoặc năm cuối có định hướng/muốn tìm hiểu công việc RA (vị trí internship)  Có kinh nghiệm trong lĩnh vực đăng ký thuốc ở các công ty đa quốc gia (vị trí contractor) Thời gian làm việc: Part time (internship)/ Full time (contractor) Các bạn quan tâm thì gửi CV sớm theo địa chỉ email nguyen_nam.huong@novartis.com. Cám ơn mọi người đã quan tâm và chia sẻ.
Chiều cao trẻ em liên quan với đột quỵ thiếu máu cục bộ, xuất huyết nội sọ

Chiều cao trẻ em liên quan với đột quỵ thiếu máu cục bộ, xuất huyết nội sọ

Trẻ em từ 7 đến 13 tuổi với tầm vóc ngắn có nguy cơ mắc chứng đột qu is thiếu máu cục bộ (IS) hoặc xuất huyết não (ICH). Điều quan trọng là mối liên quan giữa chiều cao của trẻ với các đột biến đột qu pers vẫn tồn tại bất kể sự gia tăng đáng kể chiều cao trung bình của trẻ. "Các kết quả của chúng tôi hỗ trợ vai trò tiềm ẩn của các phơi nhiễm sớm liên quan đến sự tăng trưởng trước thời kỳ trung niên trong đột qu stroke", các tác giả cho biết. Nghiên cứu bao gồm 311.009 học sinh Đan Mạch (49 phần trăm nữ) có độ cao từ 7-13 tuổi. Chiều cao trung bình tăng 4,1 cm đối với trẻ em gái và 4,2 cm ở bé trai 7 tuổi và 7,3 cm ở bé gái và 8,8 cm ở bé trai ở tuổi 13. Trong thời gian theo dõi trung bình 31,1 năm, 5,313 phụ nữ và 7,645 nam giới đã phát triển IS (80,4 phần trăm) hoặc ICH (19,6 phần trăm). [ Stroke 2018, 49: 579-585] Các hồi quy tỷ lệ thuận với Cox cho thấy chiều cao 7 năm là tương đối nghịch và liên quan mật thiết với IS ở cả hai giới tính. Cụ thể, mỗi điểm số z tăng chiều cao (tương đương khoảng 5,2 cm đối với trẻ em gái và 5,1 cm ở trẻ trai) làm giảm 11% nguy cơ phát triển thành phụ nữ (tỷ số nguy cơ [HR], 0,89; 95% CI, 0,87-0,92 ) và 10% ở nam giới (HR, 0,90, 0,88-0,92). Một mô hình kết hợp tương tự đã được quan sát thấy ở ICH ở nam giới (HR, 0.89, 0.84-0.94) nhưng không thấy ở phụ nữ (HR, 0.97, 0.91-1.04). Nam giới ở nhóm có độ cao thấp nhất có nguy cơ cao về ICH. Các mối quan hệ quan sát được giữa chiều cao của trẻ và hai phân typ đột qu were là nhất quán trên tất cả các lứa tuổi trẻ em (lên đến 13 năm). Tuy nhiên, sự tăng trưởng giữa 7 và 13 năm (thể hiện trên mỗi thay đổi 0,5 z-score) cho thấy không có mối liên hệ đáng kể với nguy cơ mắc bệnh tim mạch (nữ: HR, 1.03, 1.00-1.66, nam: HR, 1.02, 0.99-1.50) hoặc ICH phụ nữ: HR, 0,98, 0,92-1,04, nam giới: HR, 0,99, 0,94-1,05). Các phát hiện của nghiên cứu này phù hợp với những kết quả được báo cáo trong ba nghiên cứu trước đây và có liên quan đến sự hiểu biết bệnh lý bệnh thay vì cho dự báo nguy cơ lâm sàng, các tác giả cho biết. [ Stroke 2000, 31: 869-874; Đột quke 2007; 38: 264-270; J Epidemiol Community Health 2012, 66: 18-23] Họ tiếp tục đạt được chiều cao người trưởng thành là một dấu hiệu của các điều kiện tăng trưởng trong thời thơ ấu, thời điểm dậy thì và tiềm năng về chiều cao di truyền. Sự liên quan ngược chiều nhau giữa chiều cao 7 năm và IS ở cả hai giới, cũng như với ICH ở nam giới, và chỉ số giới hạn về sự tăng trưởng ở trẻ em có liên quan đến hai nhóm phụ đột qu suggest cho thấy những ảnh hưởng chính của chiều cao lên đột qu are được bắt đầu trước 7 năm, đã tốt trước khi vào tuổi dậy thì. Bởi vì một số cơn đột qu occur xảy ra tương đối sớm trong cuộc đời người trưởng thành, các tác giả chỉ ra rằng có khả năng những phơi nhiễm trong cuộc đời sớm có ảnh hưởng lớn hơn đến đột qu early sớm ở tuổi trưởng thành so với đột qu diagn được chẩn đoán sau này trong cuộc đời. Giả thuyết trên được hỗ trợ bằng các bằng chứng từ các Hợp tác Cân bằng các yếu tố Nguy cơ đang nổi lên, cho thấy mối liên quan nghịch chiều cao với đột qu were không thay đổi nhiều sau khi kiểm soát hút thuốc lâu dài, béo phì, các dấu hiệu sinh học viêm, huyết áp, lipid và đái tháo đường, làm giảm khả năng những yếu tố nguy cơ người lớn nổi tiếng này là trung gian của hiệp hội nghịch đảo. [ Int J Epidemiol 2012, 41: 1419-1433] Mặc dù thế mạnh của nghiên cứu, bao gồm thiết kế tương lai và đánh giá chiều cao bắt buộc, các tác giả thừa nhận rằng họ không thể đánh giá độ lớn của các mối liên kết ngược đối với chiều cao của trẻ so với các phép đo tương ứng ở tuổi trưởng thành hoặc để cố gắng giải quyết hậu quả độc lập của tuổi thơ ấu so với người lớn về nguy cơ đột qu..
Nhiễm độc tố nguy cơ độc lập đối với huyết khối tắc mạch tĩnh mạch

Nhiễm độc tố nguy cơ độc lập đối với huyết khối tắc mạch tĩnh mạch

Theo một nghiên cứu gần đây, nhiễm trùng và các vị trí nhiễm trùng đặc hiệu dường như làm tăng khả năng xảy ra huyết khối tắc nghẽn tĩnh mạch và nên được xem như là dấu hiệu tiềm ẩn cho dự phòng huyết khối tắc mạch tĩnh mạch. Các nhà nghiên cứu cho biết: "Nhiễm trùng là một yếu tố nguy cơ độc lập cho huyết khối tắc mạch tĩnh mạch. "Nguy cơ tử vong thuyên tắc mạch có thể được phân lớp thêm theo vị trí nhiễm trùng." Trong số 1.303 cá nhân và 1.494 người kiểm soát, 513 người (39,4 phần trăm) và 189 (12,7 phần trăm) bị nhiễm trong 92 ngày trước đó (tỉ số chênh [OR], 4,5; 95% CI, 3,6-5,5; p <0,0001) . Kháng sinh (OR, 5.2, 4.2-6.5, p <0.0001) và sốt (14.5, 9.4-22.4, p <0.0001) cũng có liên quan đến nguy cơ thuyên tắc huyết khối tĩnh mạch gia tăng. [ Am J Med 2018, 131: 307-316.e2] Phân tích đa biến điều chỉnh các yếu tố nguy cơ huyết khối tắc mạch thông thường cho thấy viêm phổi (OR, 3.64, 2.00-6.63, p <0.0001) và đường niệu triệu chứng (OR, 2.24, 1.29-3.91, p = 0.004), uống (OR, 11.61, 2.22 (OR, 17.8, 1.17-269.7, p = 0.04), và các dòng máu có hệ thống (OR, 10.69, 2.18-52.35, p = 0.004) có mối liên quan đáng kể với nguy cơ huyết khối tắc mạch tĩnh mạch cao hơn . Những phát hiện này hỗ trợ các báo cáo trước đó, như nghiên cứu chéo trường hợp, trong đó nhiễm trùng trong thời gian 90 ngày trước khi nhập viện tương quan với 2,9 lần tăng nguy cơ nhập viện vì huyết khối tắc tĩnh mạch. [ Lưu hành2012, 125: 2092-2099] Trong Đánh giá đa dạng môi trường và di truyền của các yếu tố nguy cơ cho nghiên cứu huyết khối tĩnh mạch, viêm phổi đã được tìm thấy có liên quan đến tăng gấp năm lần nguy cơ huyết khối tĩnh mạch trong vòng 1 năm nhiễm trùng. [ J Thromb Haemost  2012, 10: 1179-1182] Hai nghiên cứu, sử dụng dữ liệu từ cơ sở dữ liệu thực hành chung ở Anh, đã tìm ra mối liên hệ giữa nhiễm trùng đường tiết niệu và đường hô hấp và tăng nguy cơ huyết khối tĩnh mạch sâu. [ Int J Epidemiol  2011, 40: 819-827; J Intern Med  2012; 271: 608-618] Một nghiên cứu dựa trên dân số của Đan Mạch cho thấy, đường hô hấp, đường tiết niệu và nhiễm trùng trong ổ bụng tương ứng với 4,9-, 1,7- và 2,4 lần làm tăng nguy cơ huyết khối tắc mạch tĩnh mạch, tương ứng, điều chỉnh các yếu tố nguy cơ huyết khối tắc mạch khác. Nhiễm khuẩn huyết cũng có tương quan với tăng nguy cơ thuyên tắc huyết khối tĩnh mạch gấp 3,6 lần. [ J Intern Med  2012; 271: 608-618] Cuối cùng, trong một nghiên cứu đoàn hệ dựa trên dân số trên toàn quốc từ Đài Loan, viêm phổi do phế cầu tương ứng với nguy cơ tăng huyết áp tĩnh mạch và tắc mạch phổi gấp gấp gấp 1,8 lần. [ Respirology  2015, 20: 799-804] Trong nghiên cứu này, các nhà nghiên cứu đã sử dụng các nguồn tài liệu Dự án Dịch tễ Rochester để xác định các cá nhân có huyết khối tĩnh mạch sâu hoặc thuyên tắc phổi trong khoảng thời gian 13 năm từ 1988-2000, và 1-2 người không có huyết khối tắc tĩnh mạch phù hợp với từng trường hợp về tuổi, giới tính và ngày xảy ra tắc nghẽn tĩnh mạch. Sự hồi phục hậu phương có điều kiện được sử dụng để đánh giá các nhiễm trùng gần đây và các vị trí nhiễm trùng liên quan đến huyết khối tắc mạch tĩnh mạch, điều chỉnh chỉ số khối cơ thể, hút thuốc, điều trị hiện tại / gần đây với bệnh viện / không có phẫu thuật, giam giữ gia đình, ung thư hoạt động, chấn thương, bệnh tiểu đường, huyết khối tĩnh mạch trước, bệnh mạch máu / máy tạo nhịp tim, bệnh thiếu máu cục bộ, suy tim sung huyết, bệnh phổi hoặc thận mạn tính, bệnh gan nặng, hen, đái tháo đường, liệu pháp hoocmon và thai / sau sinh. Các nhà nghiên cứu cho biết: "Nhiễm trùng gây ra hiện tượng huyết khối thông qua tổn thương nội mô, sự kích hoạt procoagulant do mô gây ra, sự xuống cấp của đường dẫn đông kết nội sinh và ức chế sự tan rữa fibrin.
Hạ huyết áp cấp tốc không ảnh hưởng đến dòng máu não trong bệnh mạch nhỏ

Hạ huyết áp cấp tốc không ảnh hưởng đến dòng máu não trong bệnh mạch nhỏ

Hạ huyết áp (BP) không ảnh hưởng đến lưu lượng máu ở não bệnh nhân bị bệnh mạch nhỏ, một nghiên cứu gần đây khẳng định. Các nhà nghiên cứu cho biết: "Nó vẫn không chắc chắn liệu việc giảm HA thâm canh có liên quan đến kết cục tồi tệ hơn ở những bệnh nhân mắc bệnh mạch vành và các chứng tăng trắng kết hợp, trong đó làm giảm lưu lượng máu não và sự tự điều tiết ở não. Nghiên cứu PRESERVE là một thử nghiệm ngẫu nhiên được tiến hành, kéo dài 2 năm, đánh giá tiêu chuẩn (HA tâm thu, 130-140 mm Hg) so với điều trị hạ huyết áp tăng huyết áp (HA tâm thu, <125 mm Hg) ở những bệnh nhân bị bệnh mạch vành nặng về kết quả của bệnh chất trắng và nhận thức. Phân tích hiện tại điều tra sự thay đổi trong lưu lượng máu não ở 62 người có thể đánh giá được trong 3 tháng đầu của nghiên cứu. [ JAMA Neurol 2018, doi: 10.1001 / jamaneurol.2017.5153] Ở 3 tháng, HA tâm thu giảm đáng kể ở nhóm điều trị so với nhóm điều trị chuẩn (giảm trung bình, 27 vs 8 mmHg, p <0,001). Nhìn chung, 62 phần trăm bệnh nhân ở nhóm điều trị chuyên sâu và 39 phần trăm bệnh nhân trong nhóm điều trị chuẩn đã đạt được mục tiêu huyết áp của họ. Sự thay đổi trong lưu lượng máu não toàn bộ não, điểm kết thúc chính của nghiên cứu, đã được so sánh giữa cả hai nhóm điều trị. Sự thay đổi có ý nghĩa là -0,7 mL / phút / 100 g ở bệnh nhân dùng thuốc giảm HA cường độ cao so với -0.5 mL / phút / 100 g ở những bệnh nhân dùng thuốc giảm huyết áp chuẩn. Tương tự, không có sự khác biệt đáng kể trong sự thay đổi dòng máu não được quan sát thấy giữa các nhóm đối với chất màu xám, tất cả các chất trắng hoặc chất trắng xuất hiện bình thường. Không có sự khác biệt về số lượng các tác dụng phụ liên quan đến thuốc nghiên cứu (AEs) giữa hai nhóm. Không có báo cáo về AE nghiêm trọng. Các nhà nghiên cứu viết: "Kết quả của chúng tôi cho thấy không có sự khác biệt về thay đổi lưu lượng máu trong não trong thời gian theo dõi 3 tháng giữa hai nhóm điều trị. "Chúng tôi cũng không tìm thấy AE ở nhóm điều trị chuyên sâu, bao gồm các sự kiện liên quan đến hạ huyết áp tiềm ẩn. Điều này cung cấp hỗ trợ rằng các phương pháp giảm HA thâm canh không gây giảm truyền máu ở những bệnh nhân có bệnh mạch máu nặng có triệu chứng nghiêm trọng. " "Hạ huyết áp tăng cường đã được chứng minh là làm giảm các điểm kết thúc tim mạch ở những bệnh nhân không bị bệnh tim mạch. Tuy nhiên, có mối lo ngại rằng nó có thể gây nguy hiểm cho bệnh nhân mắc bệnh mạch nhỏ, vì việc hạ áp quá mức có thể làm trầm trọng thêm tình trạng giảm tiểu cầu, làm chấn thương não ", họ tiếp tục. Vì vậy, kết quả của chúng tôi đảm bảo rằng điều trị chuyên sâu có thể được sử dụng trong quần thể bệnh nhân này. Các nhà nghiên cứu lưu ý: "Những phát hiện của chúng tôi không ủng hộ những nghiên cứu trước đây ở những bệnh nhân cao huyết áp mà không có chứng đột qu or hoặc bệnh mạch nhỏ, điều này cho thấy rằng điều trị chuyên sâu làm tăng lưu lượng máu não bằng cách đặt lại đường cong tự phát huyền phù. [ Tăng huyết áp 2013, 61: 1309-1315] "Điều này có thể là do những người cao tuổi bị cao huyết áp trong nghiên cứu này ít bị bệnh mạch não nặng hơn những bệnh nhân mắc bệnh mạch nhỏ và do đó sự tăng lên của máu não có thể không thực hiện được do mức độ thiệt hại từ trước có sẵn của họ hoặc có thể mất nhiều thời gian để đạt được. "
Tình trạng buồn ngủ ban ngày quá mức liên quan đến tích tụ β-amyloid

Tình trạng buồn ngủ ban ngày quá mức liên quan đến tích tụ β-amyloid

Sự buồn ngủ ban ngày quá mức có liên quan đến sự tích tụ β-amyloid tăng ở người già mà không có chứng sa sút trí tuệ, một nghiên cứu gần đây cho thấy. Các nhà điều tra từ Mayo Clinic, Minnesota, Mỹ cho biết: "Hiện vẫn chưa rõ ràng liệu sự buồn ngủ ban ngày có liên quan đến các quá trình bệnh lý của bệnh Alzheimer [AD]". Nghiên cứu này bao gồm 283 người lớn tuổi (≥ 70 tuổi) mà không có chứng mất trí. Tất cả đều hoàn thành bảng câu hỏi về chất lượng giấc ngủ, và đánh giá tình trạng buồn ngủ ban ngày bằng cách sử dụng Quy mô giấc ngủ Epworth. Họ cũng đã trải qua ít nhất hai vết bẩn PET B-PET (PiB-PET) gắn liền với carbon 11 gắn nhãn Pittsburgh để xác định sự thay đổi mức độ β-amyloid trong não trong suốt giai đoạn nghiên cứu kéo dài 2 năm. [ JAMA Neurol 2018, doi: 10.1001 / jamaneurol.2018.0049] Nhìn chung, 22,3 phần trăm số người tham gia (n = 63) có buồn ngủ ban ngày. So với những người không có sự buồn ngủ ban ngày quá mức, những người tham gia này có sự tích tụ β-amyloid lớn hơn đáng kể trong hệ thống cingulate trước (hệ số B, 0.031, p = 0.04), hệ thống cingulate-precuneus sau (hệ số B, 0.038, p = 0.02) và vùng cận (Hệ số B, 0,033; p = 0,04). Sự kết hợp trở nên mạnh mẽ hơn ở những người tham gia với dương tính PiB toàn thể cơ sở trong hệ thống cingulate trước (hệ số B, 0.065, p = 0.02) và các vùng cingulate-precuneus (hệ số B, 0.068, p = 0.02). Các nhà nghiên cứu viết: "Những phát hiện của chúng tôi hỗ trợ các tài liệu trước đây cho thấy rằng buồn ngủ ban ngày quá mức là một yếu tố nguy cơ cho sự suy giảm nhận thức hoặc chứng sa sút trí tuệ. Tuy nhiên, vẫn chưa rõ ràng liệu sự buồn ngủ ban ngày quá mức là kết quả của sự không ổn định về giấc ngủ, sự liên kết thần kinh hoặc quá tải mạng, hoặc sự hủy hoại thần kinh của các trung tâm kích thích giác quan. " Các chuyên gia nhận xét từ Đại học California, Berkeley và Đại học California, Irvine, Hoa Kỳ cho biết: "Lần đầu tiên cho đến nay, đây là nghiên cứu duy nhất trực tiếp liên quan đến mối liên hệ giữa rối loạn giấc ngủ và các dấu hiệu sinh học liên quan đến AD" . "Khi đánh giá nguy cơ AD của một cá nhân, việc thực hiện Quy mô Ngủ ngả Epworth cùng với các cuộc phỏng vấn khác và đánh giá nhận thức có thể cung cấp một dấu hiệu có giá trị về nguy cơ sinh bệnh học trước khi đánh giá về hệ thần kinh tốn kém và tốn thời gian." [ JAMA Neurol 2018, doi: 10.1001 / jamaneurol.2018.0005] "Tuy nhiên, thận trọng là được bảo đảm khi giải thích kết quả cho những hạn chế của các biện pháp ngủ được sử dụng trong nghiên cứu này," họ chỉ ra. "Báo cáo của một cá nhân về tình trạng buồn ngủ ban ngày quá mức có thể phản ánh chất lượng giấc ngủ suy giảm, nhưng điều này không nên được coi là dấu hiệu của hiện tượng loãng xương. Trong khi đó, các nguyên nhân tiềm ẩn khác cũng có thể góp phần vào điểm số cao về giấc ngủ của Epworth (cho biết là buồn ngủ ban ngày) trong nghiên cứu này ". Ngoài sự tích tụ β-amyloid, các dấu hiệu sinh học khác của sự tiến triển của AD như lắng đọng tau, teo vỏ não, và sự thay đổi tim mạch cũng có thể đóng vai trò như thế nào trong việc làm rối loạn giấc ngủ ảnh hưởng đến bộ não lão hóa. Lý tưởng nhất là các yếu tố này cũng nên được đưa vào các nghiên cứu trong tương lai ", các chuyên gia nói thêm. "Trong khi sự hiểu biết tốt hơn về vai trò của giấc ngủ trong AD cascade có thể giúp phát triển các phương pháp điều trị dựa trên giấc ngủ hiệu quả, sự ưu tiên hiện tại đối với sức khoẻ tâm thần ở người lớn tuổi nên tập trung vào việc duy trì giấc ngủ khỏe mạnh và điều trị rối loạn giấc ngủ lâm sàng."
Các chương trình can thiệp bệnh tâm thần sớm dẫn đến kết quả cải thiện

Các chương trình can thiệp bệnh tâm thần sớm dẫn đến kết quả cải thiện

Ở những người bị rối loạn tâm thần giai đoạn đầu, các chương trình can thiệp bệnh tâm thần sớm (EPI) cải thiện kết cục trong tử vong và các chỉ số hệ thống y tế khác, một nghiên cứu gần đây cho thấy. Sử dụng dữ liệu quản lý sức khoẻ liên kết, các nhà nghiên cứu xác định xu hướng sử dụng EPI trong 1.522 cá nhân với sự cố, rối loạn tâm thần không hiệu quả. Mô hình các nguy cơ tỷ lệ Cox được sử dụng để so sánh các kết cục, chẳng hạn như nhập viện tự nguyện và nhập viện tâm thần, giữa những người đã làm và không sử dụng các dịch vụ EPI. So với các biện pháp điều trị không dùng thuốc (n = 992), tỷ lệ tiếp xúc với bác sĩ chăm sóc ban đầu thấp hơn đáng kể ở những người sử dụng dịch vụ EPI (n = 530, tỷ số nguy cơ [HR], 0,46, 95% CI, 0,41-0,52). Thời gian trung bình để tiếp xúc tâm thần đầu tiên sau chương trình cũng ngắn hơn ở những người đã làm vs không sử dụng dịch vụ EPI (13 vs 73 ngày). Trong khi tỉ lệ nhập viện cao hơn đáng kể so với những người sử dụng dịch vụ EPI so với những người không dùng thuốc (HR, 1.42, 1.18-1.71) thì sử dụng phòng cấp cứu thấp hơn đáng kể (HR, 0.71, 0.60-0.83). Tỷ lệ nhập viện không tự nguyện tương quan thống kê giữa hai nhóm (HR, 1.04; 0.88-1.22). Tử vong do mọi nguyên nhân cũng thấp hơn đáng kể ở những người sử dụng các dịch vụ EPI (HR, 0,24, 0,11-0,53), mang lại sự chênh lệch nguy cơ tuyệt đối là 2,5%. Hành vi tự gây hại (HR, 0.86; 0.18-4.24) và tử vong do tự tử (HR, 0.73, 0.29-1.80) đều có sự khác biệt thống kê giữa các nhóm. Tuy nhiên, lợi ích của EPI dường như vẫn tồn tại vượt quá 2 năm đầu. Các nhà nghiên cứu cho biết "ở đây không có lợi ích đáng kể nào đối với người sử dụng dịch vụ EPI trong thời gian từ 2 đến 5 năm sau khi đi học, khi chăm sóc thường được giảm xuống để quản lý y tế.
Gọi Tư Vấn Miễn Phí Chat nhanh đặt hàng Chat với Dược Sĩ